Yên Khánh - Miền đất giàu truyền thống lịch sử và văn hóa
Yên Khánh, một huyện nằm ở phía Đông Nam tỉnh Ninh Bình, không chỉ nổi tiếng với thiên nhiên trù phú mà còn được biết đến là vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa. Qua nhiều thế kỷ, nơi đây đã chứng kiến sự hình thành và phát triển của nhiều di tích lịch sử mang giá trị lớn, góp phần làm nên nét đẹp văn hóa của vùng đất cố đô Hoa Lư.
I. Tổng quan về Yên Khánh và giá trị lịch sử
Yên Khánh vốn là vùng đất được khai phá từ rất sớm trong lịch sử. Vị trí địa lý thuận lợi, nằm gần các trung tâm chính trị - văn hóa của tỉnh Ninh Bình, đã giúp Yên Khánh trở thành nơi giao thoa giữa các nền văn hóa trong vùng. Các di tích tại đây không chỉ phản ánh đời sống tín ngưỡng mà còn lưu giữ những dấu ấn hào hùng trong cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Những di tích lịch sử tại Yên Khánh không chỉ là minh chứng cho sự phát triển văn hóa, mà còn mang ý nghĩa giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho các thế hệ sau.
II. Các di tích lịch sử tiêu biểu ở Yên Khánh
Đền Thượng - Dấu ấn của lòng yêu nước

Đền Thượng nằm tại xã Khánh Thượng, là một trong những di tích lịch sử nổi bật của huyện Yên Khánh. Ngôi đền này được xây dựng từ thời phong kiến để thờ các vị thần linh và anh hùng dân tộc có công bảo vệ vùng đất.
Đền Thượng mang phong cách kiến trúc truyền thống với mái ngói cong, các họa tiết chạm khắc tinh xảo. Từng cột gỗ, viên gạch trong đền đều gắn liền với câu chuyện lịch sử. Đây cũng là nơi diễn ra các lễ hội lớn hàng năm như lễ rước kiệu, tế thần, và các hoạt động văn hóa đặc sắc, thu hút đông đảo du khách thập phương.
Ngoài ý nghĩa tín ngưỡng, đền Thượng còn là biểu tượng cho tinh thần đoàn kết và lòng yêu nước của người dân Yên Khánh. Truyền thuyết kể rằng, nơi đây từng là căn cứ địa của các cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm, là nơi các nghĩa quân hội tụ để mưu tính chiến lược.
Lăng mộ Vũ Duy Thanh
Lăng mộ là nơi an táng Vũ Duy Thanh nằm ở cuối làng Vân Bòng, xã Khánh Hải, huyện Yên Khánh, theo thế đất ngày xưa gọi là “Long vĩ” (đuôi rồng), sát Quốc lộ 10. Đặc biệt mộ phần, ngoài ý nghĩa là nơi an táng ông, hiện còn bản văn bia có giá trị ghi lại lịch sử, thân thế và sự nghiệp của ông, là một hiện vật quan trọng có giá trị lịch sử cao, là nơi chiêm bái của nhiều người khâm phục tài năng và đức độ của ông.
Lăng mộ Vũ Duy Thanh là di tích lịch sử văn hoá quý giá của nước Việt Nam nói chung, của huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình nói riêng. Năm 1993, lăng mộ cùng với nhà thờ Vũ Duy Thanh được công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Để bảo tồn di tích, lăng mộ Vũ Duy Thanh đã được các cấp chính quyền tu bổ, tôn tạo nhằm phát huy giá trị của di tích, góp phần lưu giữ một di sản quý giá trong lịch sử dân tộc, giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước và khơi dậy niềm tự hào dân tộc cho thế hệ trẻ, đồng thời phục vụ nhu cầu tham quan du lịch và nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân.

Khu lăng mộ với diện tích là 1.740m2, bao gồm: Cổng chính, khu lăng mộ, bình phong, nhà đón tiếp, trưng bày, nhà bia, bút tháp, đồi tùng và lầu hoá vàng.
Cổng vào khu lăng mộ được tôn tạo theo kiến trúc, vật liệu truyền thống và quy mô nguyên trạng vị trí cũ, xây bao tường cuốn vòm. Đi vào trong, phía bên trái cổng chính là nhà bia. Nhà che bia đá ghi công có hình thức kiến trúc lầu 2 tầng 8 mái. Bộ khung và vì bằng gỗ lim với 4 trụ gỗ đặt trên 4 chân tảng đá. Mái lợp ngói mũi, nền lát gạch bát phục chế. Bậc tam cấp đá xanh, thành bậc bố trí rồng mây. Tiếp đến là nhà đón tiếp, trưng bày, công trình gồm 3 gian, mỗi gian rộng 3,3m, toàn bộ vì mái được gia công bằng gỗ lim, mái được lợp ngói mũi hài. Phía trước cả 3 gian là hệ cửa đi thượng song hạ bản mang đậm nét văn hoá truyền thống Việt Nam. Tại sân trước nhà đón tiếp trưng bày là tháp bút. Kiến trúc tháp được chia thành 3 phần: chân tháp, thân tháp và đỉnh tháp với tổng chiều dài là 7,2m, trên đỉnh tháp gắn ngọn bút. Tháp được đục trạm, gia công bằng đá xanh nguyên khối.
Mộ phần cụ Bảng Vũ Duy Thanh được đặt quay về hướng Đông Nam, mộ được ốp bằng đá khối xanh có nguồn gốc tự nhiên, thiết kế theo phong cách lăng mộ đá thời nhà Nguyễn và được trạm khắc tinh xảo. Xung quanh mộ phần được tôn tạo tường hoa lửng bằng đá xanh nguyên khối. Nghi môn bao gồm 2 trụ biểu, đỉnh trụ hình dạng lồng đèn, toàn bộ trụ biểu đục trạm hoa văn, gờ chỉ, mặt trước thân trụ trạm nổi câu đối. Phía sau khu mộ là đồi tùng, phía trước khu mộ là am hoá sớ.
Lăng mộ Vũ Duy Thanh đã, đang và sẽ là điểm thu hút du khách đến tham quan và mong muốn tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp Vũ Duy Thanh – một vị quan tài năng, đức độ luôn nghĩ về dân, về nước.
Đền Văn Giáp

Khu đền được xây trên khoảng đất rộng, cao ráo gồm: Chính cung, Trung đường, Tiền đường và hai nhà tả vũ, hữu vu bề thế. Với kiến trúc cổ, những tảng đá, cột đá xà bản bề thế, chạm trổ tứ linh. Tất cả công trình kiến trúc đồ sộ phong phú và đa dạng đều mang đậm nét kiến trúc văn hóa Việt Nam. Căn cứ vào các tư liệu lịch sử của Nhà nước ghi nhận và các hiện vật lưu trữ hiện có tại di tích như: Thần phả, gia phả, đại tự, câu đối, đồ tế tự và 9 bản sắc phong qua các triều đại.
Ngôi đền là nơi tôn thờ vị lưỡng quốc Trạng nguyên thời nhà Trần: Trần Triều tiến sỹ Sơn Tây Kinh Lược Sử. Đại Sứ Thần là người thông minh tài giỏi. Triều đình Trung Quốc định mua chuộc, muốn giữ lại. Nhưng với tấm lòng trung quân ái quốc, ông đã khéo từ chối và đối lại được câu đối mà vua Trung Quốc phải phục tài rồi phong ông là Lưỡng quốc Trạng Nguyên rồi mở hội rước ông về nước. Trên đường về đến tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc), ông mất và an táng tại đó. Ngoài ra, đền là nơi tôn thờ các vị Tam tể tướng, Thập bát vị quận công (3vị tể tướng và 18 vị quận công); Các vị công chúa và công đồng các vị danh nhân họ Tạ thời Hậu Lê đã có công cùng với nhà Lê xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Thượng tướng Tạ Nhân Thọ dũng khí song toàn, được vua Lê cho chọn 36 mẫu đất tại đây để làm ruộng canh tác. Từ đây, chi giáp họ Tạ được tách ra. Ông thuộc chi cả về ở đất Văn Giáp. Ở đây, ông cho đào hào, đắp lũy, xây dựng dinh thự. Thời kỳ ở với nhà Lê, ông cùng với các vị tướng quốc họ Tạ và 18 vị quận công họ Tạ tham gia 17 trận dẹp loạn đều thắng lớn. Nên được vua phong 70 chàng trai ở khắp các nơi trong cả nước để con cháu quân lính tách ra làm ăn sinh sống.
Chùa Phúc Nhạc được xây dựng từ đời Hậu Trần (năm 1603), tên chùa Già Lê Tự. Thời kỳ đầu, chùa chỉ là một am nhỏ, tường đất mái tranh do nhân dân lập nên để thờ Phật cầu khấn, do nhân dân quản lý, đầu thế kỷ 17 mới có sư đến trụ trì. Đầu thế kỷ thứ 18 (năm Gia Long thứ 10), chùa được xây dựng lại lợp ngói, tường xây. Sau quá trình trùng tu, xây dựng ngôi chùa có diện mạo như ngày nay.

Chùa Phúc Nhạc là nơi ở và làm việc của doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ trong những ngày đầu khai khẩn đất đai thành lập huyện Kim Sơn năm Kỷ Sửu (1829). Nhờ có sự giúp đỡ của cụ sư trụ trì ở chùa Phúc Nhạc mà Nguyễn Công Trứ có điều kiện thuận lợi trong công cuộc khẩn hoang vùng bãi bồi ven biển thành lập huyện Kim Sơn.
Chùa là nơi thụ giới của hòa thượng Phạm Đức Nhuận chủ tịch Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam, cuối năm 1947, dưới sự lãnh đạo của Đảng và mặt trận Việt Minh, Hội phật giáo cứu quốc tỉnh Ninh Bình được tổ chức tại chùa Phúc Nhạc, sư cụ Phan Thanh Sán được bầu làm chủ tịch hội phật giáo cứu quốc tỉnh Ninh Bình. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ, mặt trận Việt Minh, Hội phật giáo huyện Yên Khánh đã thành lập Thanh niên Phật giáo bán vũ trang với 186 vị, trong đó phần đông là Thanh niên Phật tử chùa Nhạc tham gia, đây là lực lượng nòng cốt để tham gia phong trào đấu tranh cách mạng giai đoạn từ năm 1947 đến năm 1949 ở địa phương.
Từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945, kháng chiến chống thực dân Pháp, kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chùa Phúc Nhạc là cơ sở vững chắc của cách mạng, là nơi hoạt động bí mật của chi bộ đảng, là trung tâm liên lạc, lưu giữ, chuyển nhận công văn, tài liệu, tin tức cho hoạt động kháng chiến ở vùng địch hậu, nhiều nhà sư vừa làm nhiệm vụ tu hành vừ tích cực hoạt động cách mạng, tiêu biểu là cụ Phan Thanh Sán, Hoàng Thanh Bằng, sư ông Thái, sư ông Cao….
III. Giá trị văn hóa của di tích lịch sử ở Yên Khánh
Giáo dục truyền thống Các di tích lịch sử ở Yên Khánh là những "bảo tàng sống" về truyền thống yêu nước và tinh thần đoàn kết. Việc bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích không chỉ giúp thế hệ trẻ hiểu thêm về lịch sử, mà còn khơi dậy niềm tự hào dân tộc.
Phát triển du lịch Với sự kết hợp giữa giá trị lịch sử và vẻ đẹp thiên nhiên, các di tích ở Yên Khánh đang ngày càng thu hút du khách. Việc phát triển du lịch gắn liền với di tích lịch sử không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn giúp quảng bá hình ảnh của huyện Yên Khánh.
Gắn bó cộng đồng Các di tích như đình, đền, chùa là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa cộng đồng, góp phần gắn kết người dân. Đây cũng là nơi để con cháu xa quê tìm về cội nguồn trong những dịp đặc biệt.
IV. Những thách thức trong việc bảo tồn di tích
Mặc dù các di tích ở Yên Khánh mang giá trị lớn, nhưng việc bảo tồn và phát huy chúng đang gặp nhiều thách thức:
Để khắc phục những vấn đề này, cần có sự chung tay của chính quyền, người dân và các tổ chức xã hội trong việc bảo vệ và phát huy giá trị của các di tích lịch sử.
V. Kết luận
Yên Khánh, với bề dày lịch sử và văn hóa, là một minh chứng sống động cho sức sống mãnh liệt và tinh thần kiên cường của dân tộc Việt Nam. Những di tích lịch sử tại đây không chỉ là tài sản quý báu của người dân Yên Khánh, mà còn là di sản văn hóa của cả nước. Việc bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích này không chỉ góp phần gìn giữ bản sắc dân tộc mà còn tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của địa phương.
Hy vọng rằng, với sự quan tâm của các cấp chính quyền và ý thức cộng đồng, Yên Khánh sẽ tiếp tục là điểm đến văn hóa, lịch sử hấp dẫn, góp phần đưa Ninh Bình ngày càng khẳng định vị thế trong lòng du khách gần xa.